Hai góc hình vuông.

Anh Dang
Paper and Pencil
Published in
12 min readOct 20, 2019

Sài Gòn. Mùa Hè, năm 2012.

Đây là truyện mình viết gửi dự thi một cuộc thi viết truyện ngắn năm 2012. Năm đó, truyện được giải nhất và in vào tập truyện ngắn.

Mùa hạ đâu chỉ là mùa của chia tay
Mùa hạ còn là mùa của những cuộc gặp gỡ

Mùa hạ năm trước, như một lệ thường của mỗi dịp nghỉ hè, tôi đăng ký tham gia một khóa luyện nói anh văn. Chỗ tôi học là một trung tâm lớn. Thứ bảy, chủ nhật nào cũng chật cứng những đứa trẻ con 6–7 tuổi đi học anh văn. Những người lớn hơn (cỡ tôi) thì chủ yếu học vào khoảng chiều tối những ngày trong tuần. Tôi học ca 5h đến 7h — giờ cao điểm. Ca của tôi, trung tâm lúc nào cũng nhộn nhịp, chen chúc không thua gì những buổi cuối tuần của bọn nhỏ, thiếu điều là không có những tiếng nói cười, la hét và tiếng trẻ con nô đùa.

Vốn có kinh nghiệm từ những khóa học hè trước, bữa học đầu tiên, tôi tranh thủ đến rất sớm vì biết sẽ không cách nào thoát khỏi viễn cảnh “kẹt thang máy”. Ấy thế mà…tránh vỏ dưa vẫn gặp phải vỏ dừa, tưởng thoát được cảnh “kẹt thang máy” lại gặp phải cảnh kẹt xe, kết cuộc vẫn đến trễ 30 phút so với dự tính. Tôi hấp tấp chạy vội qua cánh cửa kính to ụ, hơi lạnh từ máy điều hòa trên trần tát vào người. Trái ngược với cái không khí mát lạnh tê người đón chào tôi ấy, ở xa xa là một cảnh tượng nóng nực hơn hẳn — mấy cái đầu người đang đứng lố nhố, chen chúc nhau trong thang máy nhỏ hẹp. Tôi vuốt mồ hôi, lao về phía cửa thang máy, hy vọng may mắn nhét kịp người vào trong. Lạy trời…tôi học tầng 8.

Tôi cứ chạy và chạy, nhìn cánh cửa thang máy ở cuối hành lang khép lại trong vô vọng. Híc…

Rồi cái sự “đóng” của cánh cửa bỗng chững lại. Một bàn tay đã đưa ra giữ thang máy, và…đó không phải là tay tôi. Hú hồn. Thật vừa kịp. Tôi rối rít cảm ơn, mừng rỡ chui vào thang máy, không quên đưa mắt nhìn sang “ân nhân” của mình. Chàng cao, đeo kính cận và mái tóc nâu nhạt bồng bềnh. Ăn mặc phong cách, nhưng có vẻ cổ điển. Kiểu người không có gì quá đặc biệt, nhưng lại nổi bật và tỏa sáng giữa đám đông. Thang máy đi qua tầng nữa, đón thêm vài hành khách chen vào, họ xen giữa, đẩy tôi ra xa khỏi chàng. Tôi xích vào trong góc chỗ bảng bấm điện tử. Chàng đứng ở góc bên kia, đăm chiêu nhìn những con số màu đỏ nhảy nhót trên tấm bảng. Xuyên qua những đầu người xô đẩy nhau, tôi bắt gặp trên tay chàng cuốn giáo trình quen thuộc — giáo trình cho khóa học tôi sắp tham gia.

Tôi chung lớp với chàng. Cũng như hai góc trong thang máy, tôi và chàng ngồi hai góc của lớp học. Chàng ở bên kia, bên khung cửa sổ lớn nhìn xuống đường phố tấp nập xe cộ và nhìn lên là cả một khoảng trời rộng lớn. Tôi ngồi bên này, trong một góc tường yên bình, không cửa sổ chỉ có những bức hình họa ngộ nghĩnh, sinh động với những từ tiếng anh đơn giản cho lũ trẻ con. Bên kia, góc của chàng ngập tràn nắng hoàng hôn, một chỗ ngồi lý tưởng, lãng mạn và đậm chất thơ. Bên này, góc của tôi — một góc ngồi khuất tầm nhìn, thường dành cho những học sinh rút rè và nhút nhát, một chỗ ngồi không có gì đặc biệt, ngoại trừ việc… từ góc của tôi có thể quan sát chàng rất rõ.

Ngắm nhìn chàng trong giờ học vẫn luôn là một sở thích thú vị. Đôi lúc bỏ quên cả bài giảng trên bảng, tôi không thể ngăn mình đưa mắt về phía góc kia của lớp học. Hình ảnh chàng bên cửa sổ mãi mãi là một khung cảnh khó tả. Tầm khoảng 5h đến 5h30 khi chúng tôi vào học, ngoài kia mặt trời cũng dần xuống, ánh hoàng hôn xuyên qua khung cửa, trải dài trên mái tóc bồng bềnh của chàng. Màu nắng càng làm cho tóc chàng ánh nên một sắc nâu thu hút. Thế nhưng dưới ánh nắng chiều đáng ghét ấy, đôi mắt phía sau cặp kính cận lại trở nên khó quan sát hơn và đó là những lúc bên góc này tôi đoán thầm: đằng sau cặp kính ấy chàng đang nhìn ai? Nhìn bảng, nhìn thầy giáo, nhìn quyển giáo trình trước mặt hay biết đâu là đang nhìn tôi…

Chàng hay chống cằm. Mỗi lần tôi lén nhìn sang, chàng đều đang chống cằm. Đầu nghiêng nghiêng cho mái tóc mềm xòa xuống trước trán. Chàng đến lớp không để học. Lúc nào cũng lơ đãng nhìn ra khung trời ngoài kia của chàng, nếu không thì hí hoáy gì đó trên trang giấy trắng trước mặt và tôi dám chắc chàng không ghi chép gì bài vở cả (chúng tôi đang học nói, không phải học viết). Đôi lúc, tôi bắt gặp chàng mỉm cười, không với ai, không rõ vì điều gì. Chàng chỉ vu vơ mỉm cười một mình. Một nụ cười lơ đễnh, bí ẩn, dịu dàng và ngọt lịm.

Trong mỗi buổi học, từng học viên đều phải lần lượt lên nói trước lớp về một đề tài nào đó. Theo vị trí chỗ ngồi, chàng luôn là người đầu tiên và tôi luôn là người cuối cùng. Giọng chàng trầm thấp đến mức khó có thể nghe được nếu không chú tâm, nhưng lại du dương, lạ lẫm. Giống như giọng nói của mình, chàng có một dáng đi lặng lẽ và trầm lắng, không phải như dáng vẻ của những ông lão nhưng cũng hoàn toàn khác những tên con trai mà tôi thường thấy. Mọi thứ từ chàng đều toát lên một vẻ thu hút kỳ lạ, một vẻ lãng mạn khác thường. Chàng đặc biệt và không giống bất kỳ ai tôi từng gặp.

Tôi vẫn thường bí mật theo sau chàng mỗi khi tan học, cứ thế đếm bước sau chàng suốt một chiều dài hành lang. Cũng nhiều lần, tôi và chàng cùng đi một chuyến thang máy. Lần nào cũng vậy, tôi và chàng đều đứng ở hai góc khác nhau. Lần nào cũng vậy, tôi bí mật quan sát chàng. Đôi lần là qua những đầu người chen chúc. Đôi lần là qua tấm gương phản chiếu trong thang máy. Chưa bao giờ, tôi dám nhìn thẳng vào chàng. Chưa bao giờ, tôi dám mở miệng bắt chuyện với chàng. Và chưa bao giờ, chàng biết tôi lén nhìn chàng dẫu cho chúng tôi học cùng một lớp, bước trên cùng một hành lang và đi cùng thang máy mỗi ngày.

Cứ như thế…những người lạ rất quen.

Lớp của tôi chỉ khoảng mười mấy người, ngày nào cũng chừng ấy khuôn mặt xoay vòng nhau lên nói trước lớp, thế nên chỉ ít lâu cả lớp ai cũng biết mặt nhau. Tôi và chàng cũng biết nhau, nhưng tuyêt nhiên chưa từng trò chuyện, thậm chí một câu chào đơn giản cũng không. Mỗi ngày vẫn chạm mặt nhau ở cửa lớp, nơi hành lang, trong thang máy, tôi thì quá chần chứ, chàng thì phớt tỉnh, thờ ơ với mọi thứ. Dần dần rồi tôi quen thêm những người bạn mới trong lớp. Những người ngồi cạnh vẫn trò chuyện rôm rả mỗi giờ giải lao, trao đổi vài chỗ phức tạp trong bài học. Nhưng góc lớp bên kia thì xa với tôi quá, khung trời bên kia sao mà lạ lẫm đến đáng sợ và chàng như một bóng nắng chiều tạt qua khung cửa. Nắng đẹp và ấm nhưng luôn là thứ cho ta cảm giác không thể chạm đến được. Mỗi ngày, từ bên này góc lớp, tôi vẫn ngắm về phía khung cửa sổ đầy nắng ấy và tưởng tượng đến một ngày nào đó tôi sẽ trò chuyện với chàng. Tôi thậm chí đã sắp đặt ra sẽ nói với chàng những gì, hỏi chàng những chuyện gì, rồi chàng sẽ đáp lại bằng chất giọng trầm, khó nghe với vẻ dịu dàng và nho nhã vốn thấy. Trò chuyện với chàng là mơ ước nhỏ nhoi của tôi. Trò chuyện và rồi nhìn thẳng vào đôi mắt chàng đằng sau cặp kính trắng, không phải qua những đầu người, không phải một hình ảnh phản chiếu, không bị lóa đi bởi nắng hoàng hôn, không phải từ góc bên này đến góc bên kia. Tôi luôn tự hỏi đôi mắt chàng sẽ có màu gì? Nâu óng như nắng chiều, nồng nàn của khung trời hoàng hôn hay sâu thẳm như khung cửa sổ những lúc 7h khi tan ca học.

Cơ hội đầu tiên của tôi đến khi thầy cho xếp nhóm 5 người để luyện nói với nhau theo chủ đề. Ngẫu nhiên thế nào, tôi và chàng lại cùng một nhóm. Chủ đề hôm đó là: “Bạn có tin vào tình yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên không? (Do you believe in love at the first sight?)”.

Lần đầu tiên tôi được bước sang khung trời của chàng. Tôi có thể nghe giọng chàng thật trầm bên tai. Tôi nói và chàng nói như một phần tất yếu không thể thiếu của khóa học. Nhưng không hẳn là nói với nhau, chàng nói với cả 4 người còn lại và tôi cũng vậy. Những câu nói vu vơ không đặc biệt hướng về một ai. Tôi tin vào tình yêu từ cái nhìn đầu tiên, nhưng chàng thì không…

Khoảng cách từ góc bên kia sang góc bên này đã rút ngắn lại chỉ còn một cánh tay. Chàng ngay đó, ngay trong tầm với của tôi. Nhóm tôi kết thúc phần thảo luận xong sớm, tôi chỉ việc quay sang là có thể nhìn thấy đôi mắt chàng, chỉ cần hỏi vu vơ một câu như mượn cây bút chẳng hạn thì chắc chàng sẽ trả lời ngay, rồi thì tôi sẽ vờ viết vu vơ gì đó vào cuốn giáo trình và trả lại, mỉm cười cảm ơn, sau đó sẽ thuận miệng hỏi chàng một câu như: “Anh học trường nào?”… Đơn giản thế thôi nhưng tôi lại chần chừ…

Các nhóm khác rồi cũng hoàn thành phần thảo luận, ai lại về chỗ người ấy. Tôi rời xa khung cửa sổ của chàng trở về với cái góc của tôi. Cơ hội đầu tiên như thế lặng lẽ trôi qua. Tôi cũng chẳng mấy nuối tiếc, còn cả một mùa hạ dài phía trước…

Chàng thích đọc sách. Mỗi ngày đi học, bên cạnh cuốn giáo trình luôn là một cuốn tiểu thuyết. Chàng thích đọc Marc Levy, những quyển tiểu thuyết lãng mạn. Mỗi giờ giải lao, chàng ngồi đọc sách bên cửa sổ, bên ngoài khung trời đã sụp tối, không còn nắng hoàng hôn chỉ còn ánh đèn đường. Khác với những người đọc sách mà tôi thường gặp, chàng đọc rất chậm, dừng lại rất lâu trước mỗi trang sách. Chàng dùng cây thước kẻ để đánh dấu trang. Mỗi khi chuông reo vào học, bao giờ cũng xếp sách lại gọn gàng và đặt ngay ngắn trong hộc bàn. Giải lao nào cũng vậy, rất lặng lẽ và chăm chú, chàng đọc sách. Tôi thì không thích đọc, vì vậy tôi nghĩ ra chuyện khác để làm trong những giờ giải lao.

Tôi đem theo một cuộn sợi và cây kim móc. Khi ở góc bên kia, chàng lôi sách ra đọc cũng là lúc ở góc bên này, tôi đem dụng cụ ra để móc. Tôi móc nhiều thứ: một cái lót ly, một cái khăn vuông hay một cái bóp viết… Mọi người có vẻ khá thích thú với kỹ năng móc của tôi. Mỗi khi tôi đem cuộn sợi ra là mấy chị bàn trên lại túm tụm lại quanh tôi, theo dõi từng mũi móc ngoi lên lặn xuống và sau từng mũi kỳ công, hình thù của món đồ được tạo thành. Mấy tên con trai lại trầm trồ trước những món đồ đã thành phẩm của tôi, rồi lại kỳ kèo đòi tôi móc cho một món. Lần đầu tiên, chàng từ bên kia khung cửa sổ ngước lên khỏi trang tiểu thuyết và nhìn sang góc bên này tôi đang ngồi móc. Chàng gấp quyển sách lại, bước từ bên góc lớp của chàng sang góc lớp của tôi. Chàng đứng sau đám con trai nhí nhố, yên lặng dõi theo từng mũi tôi móc. Khẽ khàng chàng mỉm cười, một nụ cười ngọt lịm. Chàng ngồi xuống cái bàn cạnh tôi, chăm chú nhìn từng cử động tay của tôi y như cách chàng chăm chú vào từng con chữ trong cuốn Marc Levy giờ đã xếp gọn trong hộc bàn ở cửa sổ bên kia. Một lần nữa, chàng đang ở rất gần và đôi mắt chàng đang nhìn tôi. Sẽ rất đơn giản, nếu tôi quay sang chàng và hỏi: “Nhìn được không anh?” như tôi vẫn thường vô tư hỏi những tên con trai khác trong lớp. Tôi chần chừ và cơ hội thứ hai đi qua… Không sao cả, chỉ mới giữa hạ và đây không phải cơ hội cuối cùng của tôi.

Hạ rồi cũng qua cho thu về là mùa tựu trường, chẳng mấy chốc khóa học hè của tôi sẽ kết thúc vào ngày mai. Lớp tôi sẽ tổ chức một bữa tiệc chia tay. Ai cũng háo hức chờ đợi. Người ta luôn nói mỗi kết thúc sẽ là khởi đầu cho một cái mới. Kết thúc của khóa học biết đâu sẽ là một khởi đầu cho tôi và chàng. Tôi đã móc tặng cho mỗi người một món quà, riêng chàng tôi đã móc tặng chàng một miếng đánh dấu trang. Tôi sẽ tặng lần lượt mọi người và sẽ tặng chàng cuối cùng, sẽ trao tận tay chàng, sẽ kể cho chàng nghe tôi đã lén nhìn chàng đọc sách và móc tặng chàng món quà này để nó thay cho cây thước nhựa được nằm yên trong cuốn tiểu thuyết chàng vẫn thường chăm chú bên khung cửa sổ. Sẽ hỏi chàng về những quyển sách chàng đọc, sẽ trò chuyện với chàng lần đầu tiên, sẽ nhìn vào đôi mắt chàng. Đằng sau cặp kính, đôi mắt ấy có màu gì?

Như thế, tôi sẽ không chần chừ nữa. Ai đó vẫn thường nói: “Mỗi người đều có ba cơ hội”. Tôi đã để vụt qua hai cơ hội và đây là cơ hội thứ ba và cũng là cơ hội cuối cùng của tôi. Lần này tôi sẽ nắm nó thật chặt.

Buổi tiệc chia tay. 5h45 và chàng chưa tới. Bên khung trời bên kia chỉ còn một màu xám ngoét của những giây phút hoàng hôn đã đi qua. Chỗ ngồi của chàng trống trải và lạnh lẽo. Không còn nắng hoàng hôn, không còn tóc nâu bồng bềnh, không còn mắt kính trắng, không còn tay chống cằm, không còn Marc Levy trong hộc bàn. Hôm ấy chàng đã không đến, cơ hội thứ ba không bao giờ có.

Những món quà móc công phu cuối cùng đã trao tay hết khắp lượt mọi người, chỉ còn một món quà mãi mãi nằm lại trong hộc bàn của tôi.

Tôi lặng lẽ bước trên hành lang vắng. Thang máy hôm nay cũng chẳng còn chen chúc như mọi hôm. Cuối hạ rồi, học sinh cũng đã chia tay với lớp học hè để về lại trường lớp. Tôi chợt nhận ra tất cả những gì tôi nghĩ về chàng luôn luôn ở thì tương lai, luôn luôn là “sẽ”: “sẽ nói chuyện với chàng”, “sẽ hỏi chàng”, “sẽ tặng chàng”…Tôi chưa bao giờ và không bao giờ có thể biến những cái “sẽ” ấy thành “đang” hoặc “đã”. Sự “đã” duy nhất là tôi “đã” đi qua hết cơ hội này đến cơ hội kia vì tôi luôn chờ đợi vào cái gọi là “cơ hội thứ ba”. Tôi không biết rằng trong đời đôi khi người ta chỉ có hai cơ hội, đôi khi là chỉ một. Tôi đã chờ đợi quá lâu, quá rụt rè để trở thành người bắt đầu. Bất giác tôi mỉm cười một mình, biết đâu đằng sau vẻ lơ đãng ấy, chàng cũng lặng lẽ theo dõi tôi và cũng như tôi — “sẽ” hết lần này đến lần khác, thụ động bên khung trời của mình và không đủ can đảm để bước sang khung trời bên kia. Biết đâu đấy, cả tôi vào chàng đều đợi đối phương tiến bước đầu tiên đến cạnh bên mình để rồi cuối cùng cả hai mãi mãi đứng ở hai góc khác nhau — hai góc của một hình vuông.

Và như thế, màu mặt của chàng sẽ mãi mãi là một bí ẩn của tôi…

Mắt chàng màu gì?

Đôi lúc, con người ta quá chần chừ cho một khởi đầu…

--

--